Quỹ phát triển Khoa học Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) đã triển khai chương trình nghiên cứu cơ bản năm 2023 sau một năm không tài trợ cho đề tài mới. Ngân sách đầu tư cho nghiên cứu khoa học của quỹ chỉ là chưa đến 300 tỉ đồng. Tuy nhiên, PGS-TS Nguyễn Phương Thảo cho rằng con số này chỉ tính riêng của Quỹ NAFOSTED, và còn nhiều nguồn kinh phí khác cho nghiên cứu cơ bản. Thêm vào đó, nghiên cứu ứng dụng cũng được đầu tư nhiều hơn. PGS Thảo nhấn mạnh rằng nghiên cứu cần phải thực chất hơn, gắn với nhu cầu doanh nghiệp hơn thay vì đối phó với KPI trường đại học. Ngoài ra, cần có cơ chế và điều kiện phát triển hợp lý hơn để thu hút đầu tư cho nghiên cứu khoa học, từ nhà nước và từ các nguồn tài chính khác như tài trợ quốc tế và hoạt động đổi mới sáng tạo.
Quỹ phát triển Khoa học Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) vừa triển khai chương trình nghiên cứu cơ bản năm 2023 sau một năm không tài trợ cho đề tài mới nào. Trong đó, con số ngân sách của quỹ đầu tư cho nghiên cứu khoa học chưa đến 300 tỉ đồng khiến nhà khoa học ngậm ngùi nhưng cũng có những ý kiến với góc nhìn khác.
PGS-TS Nguyễn Phương Thảo, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bệnh truyền nhiễm (ĐH Quốc gia TP.HCM), cho rằng con số 300 tỉ đồng trên mới chỉ tính riêng của Quỹ NAFOSTED – nghĩa là cho nghiên cứu cơ bản. Ngoài NAFOSTED, còn các nguồn kinh phí khác cho nghiên cứu cơ bản. Chẳng hạn, những đề tài cấp cơ sở của các trường, cấp ĐH quốc gia, viện hàn lâm… Ngoài ra, kinh phí cho nghiên cứu ứng dụng còn nhiều hơn. “Và đây là xu hướng chung của tất cả các nước, trong đó nghiên cứu cơ bản chỉ được đầu tư bằng 1 phần nhỏ nghiên cứu
ứng dụng. Sau đó, sẽ đến nghiên cứu triển khai mà ở các nước phát triển đa phần do các tập đoàn, công ty bỏ tiền làm”, PGS Thảo cho hay.
Khi được hỏi liệu rằng kinh phí nhà nước Việt Nam bỏ ra cho nghiên cứu có ít hay không, PGS-TS Phương Thảo khẳng định: “Có, bởi theo số liệu của nhóm nghiên cứu đến từ ĐH Quốc gia Hà Nội và Bộ Khoa học và công nghệ thu được khi tiến hành khảo sát tại các cơ sở giáo dục ĐH giai đoạn 2011-2016, đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học công nghệ cả nước bình quân cả giai đoạn 2011-2015 chỉ tương đương 0,4% GDP. Như vậy, tất nhiên một nguồn tăng đầu tư cho nghiên cứu khoa học nên từ nhà nước”.
Tuy nhiên, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bệnh truyền nhiễm (ĐH Quốc gia TP.HCM) cho rằng: “Phần khác tất nhiên phải từ tài trợ của các công ty, từ doanh thu của các trường ĐH thông qua chuyển giao công nghệ hay hiến tặng…”.
Xu hướng chung của tất cả các nước, trong đó nghiên cứu cơ bản chỉ được đầu tư bằng 1 phần nhỏ nghiên cứu ứng dụng. Sau đó, sẽ đến nghiên cứu triển khai mà ở các nước phát triển đa phần do các tập đoàn, công ty bỏ tiền làm.
PGS-TS Nguyễn Phương Thảo
Theo PGS Thảo, điều quan trọng nhất để thu hút đầu tư cho nghiên cứu khoa học ở Việt Nam (nhất là nghiên cứu ứng dụng), hoạt động nghiên cứu cần thực chất hơn, gắn với nhu cầu doanh nghiệp hơn chứ không phải để đối phó với KPI với trường.
Ngoài ra, cơ chế hợp lý hơn cũng cần thiết. “Bên mình từng phải dừng 2 đề tài doanh nghiệp tài trợ do cơ chế giải ngân, đấu thầu của các đơn vị nhà nước quá chậm chạp, không thể đạt được tiến độ mong muốn”, PGS Thảo nêu ví dụ.
Cũng theo nhà nghiên cứu này, các yếu tố khác cần có thêm như: cơ chế tài chính, điều kiện phát triển nói chung. Chỉ khi đó, các doanh nghiệp mới bỏ tiền làm nghiên cứu triển khai thay vì nhập công nghệ hoặc làm ở nước khác. Từ đó, mới rút ngắn khoảng cách giữa các nghiên cứu ở trường, viện với nhu cầu doanh nghiệp và tăng nguồn đầu tư của doanh nghiệp cho nghiên cứu khoa học ở Việt Nam.
Nên hướng đến ứng dụng thực tiễn hơn là chỉ tập trung nghiên cứu cơ bản
Một GS công tác tại ĐH Quốc gia TP.HCM cũng có những trăn trở tương tự. GS này cho rằng cần thống kê số liệu đầy đủ hơn từ đầu tư tài chính cho nghiên cứu khoa học và đánh giá những chương trình, lĩnh vực hoạt động hiệu quả. Nhưng theo GS này, trong bối cảnh khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nên hướng đến ứng dụng thực tiễn hơn là chỉ tập trung nghiên cứu cơ bản. Bên cạnh đầu tư nhà nước, hoạt động nghiên cứu khoa học cần tìm thêm nguồn tài chính từ các quỹ tài trợ quốc tế lớn, từ hoạt động nghiên cứu đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư mạo hiểm…
“Tôi vẫn cho rằng cần thiết nhất chính là thay đổi tư duy quản trị và phát triển trong bối cảnh mới. Đồng thời, việc sử dụng ngân sách phải hiệu quả hơn cùng với việc tìm nguồn tài chính từ đầu tư mạo hiểm, từ quốc tế và từ xã hội”, nhà khoa học của ĐH Quốc gia TP.HCM nêu ý kiến.
Nhận định của Trường Việt Nam:
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, việc Quỹ phát triển Khoa học Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) chỉ đầu tư chưa đến 300 tỉ đồng trong chương trình nghiên cứu cơ bản năm 2023 là một con số đáng tiếc. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng con số này chỉ đại diện cho một phần nhỏ trong tài trợ cho nghiên cứu khoa học, với nhiều nguồn kinh phí khác như các đề tài cấp cơ sở, kinh phí nghiên cứu ứng dụng, tài trợ từ doanh nghiệp. Để thu hút đầu tư cho nghiên cứu ở Việt Nam, hoạt động nghiên cứu cần thực chất hơn, gắn kết với nhu cầu doanh nghiệp và cần có cơ chế tài chính và phát triển hợp lý hơn. Hơn nữa, việc thay đổi tư duy quản trị và sử dụng nguồn tài chính từ đầu tư mạo hiểm, quốc tế và xã hội cũng rất cần thiết.